09:41 PM 15/04/2025  | 

Từ tháng 7-2000, sau khi Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết Hiệp định Thương mại song phương (bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12-2001), sự kiện đặc phái viên Edmund Roberts và các sứ bộ ngoại giao Hoa Kỳ sang Việt Nam nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với triều Nguyễn dưới thời vua Minh Mạng (vào tháng 12-1832 và tháng 5-1836) đã được đề cập tới dưới nhiều góc cạnh khác nhau trong một số nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Để tiếp cận vấn đề này từ một góc độ khác, tôi muốn giới thiệu cùng bạn đọc một bài viết từ phía Pháp, bài “Une mission américaine en Annam sous Minh Mạng[1] (Phái bộ Hoa Kỳ tới Annam dưới thời vua Minh Mạng) của Léon Sogny[2].

*******

Trong “Une mission américaine en Annam sous Minh Mạng”, Léon Sogny kể lại rằng năm 1932, trong lần qua Huế, Phó Lãnh sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Sài Gòn W. Everett Scotten đã hỏi rằng, liệu ông ta có thể tìm kiếm trong tàng thư của triều đình Huế, dấu vết của phái bộ thương mại mà Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson giao cho Edmund Roberts[3] với danh nghĩa là “đặc sứ[4] hay không.

     Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson, nguồn: sưu tầm

 

Về “đặc sứ” này, Léon Sogny nhận xét như sau: “Thương gia Edmund Roberts, người đã thực hiện rất nhiều chuyến đi ở vùng Viễn Đông, dường như rất phù hợp để hoàn thành tốt nhiệm vụ này”. Cũng theo Léon Sogny, biên niên sử Hoa Kỳ ghi lại rằng Edmund Roberts nhận chức vụ này từ năm 1831 và chắc hẳn ông ta đã đến Annam vào tháng 3-1832. Sau đó Edmund Roberts đã đến Xiêm và đạt được một hiệp ước thương mại với đất nước này. E. Roberts mất năm 1836 tại Macao[5].

Theo Chánh Sở Mật thám Trung Kỳ Léon Sogny, ngoài nhiệm vụ thuần túy về thương mại này, Edmund Roberts còn được chính phủ Hoa Kỳ giao nhiệm vụ trình bày với Quốc vương Muscat[6] về các tàu buôn của Hoa Kỳ đã bị cướp bóc ở khu vực lân cận Vương quốc này.

 Hình ảnh thuyền buôn của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ những năm đầu thế kỷ XIX, nguồn: sưu tầm.

 

Cũng theo Léon Sogny, Edmund Roberts đã kể lại trong thư của mình, do những khó khăn phải vượt qua trong việc thiết lập quan hệ với các chức sắc cao cấp của Annam, ông ta đã tự đặt cho mình một cái tên quý tộc, bằng cách thêm vào sau họ của mình, cụm từ “New-Hampshire” là tên tỉnh nguyên quán của ông ta. Điều này, theo Léon Sogny, “hẳn Edmund Roberts biết rất rõ về phong tục ở miền Viễn Đông”.

 Thuyền USS Peacock năm 1838 (tranh vẽ của Hải quân Hoa Kỳ), nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Edmund_Roberts

 

Để có căn cứ trả lời yêu cầu của Phó Lãnh sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ W. Everett Scotten, theo Léon Sogny thì “vấn đề là phải tìm thấy trong kho lưu trữ của chính phủ Annam thư ủy nhiệm ông Edmund Roberts của Tổng thống Jackson”. Nhưng tiếc thay, người ta đã không tìm thấy tài liệu này.

Tuy nhiên, Léon Sogny đã phát hiện ra hai tư liệu được đưa vào Biên niên sử thời kỳ đó mà theo ông ta “chắc chắn đề cập tới phái bộ của Edmund Roberts”. 

Thuyền USS Peacock khi gặp nạn (tranh vẽ của của Hải quân Hoa Kỳ), nguồn: sưu tầm

 

Để chứng minh cho luận điểm của mình, Léon Sogny đã đưa ra 2 bản dịch tiếng Pháp trong “Đại Nam thực lục” dưới đây. Để tiện tham khảo, xin được trích dẫn nguyên văn 2 đoạn viết về 2 sự kiện đó trong “Đại Nam thực lục” của triều Nguyễn. 

1. Bản dịch thứ nhất từ “Đại Nam thực lục” (năm Minh Mạng thứ 13-1832)[7].

Mùa đông, tháng thứ 11, năm Minh Mạng thứ 13 (12-1832)

 “Quốc trưởng nước Nhã Di Lý (nước này ở Tây dương, hoặc gọi Hoa Kỳ, hoặc gọi là Ma Li Căn, hoặc gọi là Anh Cát Lợi mới đều là biệt hiệu nước ấy)[8] sai bọn bề tôi là Nghĩa Đức Môn La Bách Đại[9], Uý Đức Giai Tâm Gia[10] (tên hai người) đem quốc thư xin thông thương thuyền ở cửa vụng Lấm [vũng Lắm] thuộc Phú Yên. Vua sai Viên ngoại lang Nguyễn Tri Phương, Tư vụ Lý Văn Phức đi hội với quan tỉnh, lên trên thuyền thết tiệc, và hỏi ý họ đến đây làm gì. Họ nói: “Chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương”, nói năng rất cung kính. Đến lúc dịch thư ra có nhiều chỗ không hợp thể thức.

Vua bảo không cần đệ trình thư ấy. Rồi cho quan quyền lĩnh chức Thương bạc làm tờ trả lời. Đại lược nói: Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay, nếu có đến buôn bán thì cho đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật, rồi giao thư cho họ mà bảo họ đi“.

Vũng Lắm (Phú Yên) là nơi phái bộ Hoa Kỳ thả neo khi sang thăm Việt Nam năm 1832, nguồn: sưu tầm

 

2. Văn bản thứ hai được Chánh Sở Mật thám Trung Kỳ Léon Sogny dẫn ra làm bằng chứng cho kết quả tìm kiếm mọi thông tin có liên quan đến “phái bộ của Edmund Roberts” là bản dịch từ “Đại Nam thực lục” (năm Minh Mạng thứ 17 - 1836)[11].

Mùa hạ, tháng 4, năm Minh Mạng thứ 17 (tháng 5-1836).

 “Binh thuyền Ma Li Căn đậu ở vũng Trà Sơn thuộc Đà Nẵng, Quảng Nam, nói có quốc thư cầu thông đạt, xin vào chầu. Quan tỉnh đem việc tâu lên. Vua hỏi thị lang bộ Hộ Đào Trí Phú rằng: “Xem tình ý lời lẽ của họ tỏ ra cung thuận, vậy có nên nhận hay không?” [Trí Phú] thưa: “Họ là người nước ngoài, tình ý giả dối cũng chưa biết chừng. Thần tưởng hãy cho họ vào Kinh, lưu ở công quán Thương bạc, phái người đến khoản đãi để thăm dò cái ý họ đến. Thị lang Nội các Hoàng Quýnh tâu nói: “Nước họ xảo quyệt muôn mặt, nên cự tuyệt đi. Một khi dung nạp sợ để lo cho đời sau. Người xưa đóng cửa ải Ngọc Quan, tạ tuyệt Tây vực, thực là chước hay chống cự Nhung Địch. Vua nói:Họ xa cách trùng dương trên 40000 dặm, nay ngưỡng mộ uy đức triều đình mà đến sao lại cự tuyệt, chẳng hóa ra tỏ cho người ta thấy mình không rộng rãi ư?”. Liền sai Đào Trí Phú cùng với Thị lang bộ Lại Lê Bá Tú, làm thuộc viên Thương bạc, đến nơi ủy lạo thăm hỏi. Khi đến nơi, viên thuyền trưởng nói là bị ốm, không tiếp kiến được. Ta sai thông ngôn đến thăm; họ cũng sai người đáp lễ. Rồi ngay ngày ấy, giương buồm kéo đi. Bọn Trí Phú đem việc tâu lên và nói:Chợt đến chợt đi thực không có lễ nghĩa!”. Vua phê bảo rằng:Họ đến, ta không ngăn cản, họ đi, ta không đuổi theo. Lễ phép văn minh có trách gì man di cõi ngoài!”.

Với hai bản dịch từ “Đại Nam thực lục” nêu trên, Chánh Sở Mật thám Trung Kỳ Léon Sogny cho rằng, trường hợp chiếc thuyền đầu tiên của Hoa Kỳ vào năm 1832 là chính xác vì “không còn điều gì nghi ngờ nữa”. Bản sao từ “Đại Nam thực lục” (năm Minh Mạng thứ 13-1832) đã được chuyển đến cho Phó Lãnh sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ W. Everett Scotten.

Còn trường hợp thứ hai đối với “Binh thuyền Ma Li Căn đậu ở vũng Trà Sơn thuộc Đà Nẵng, Quảng Nam” vào tháng 5-1836 thì Léon Sogny đưa ra nhận định là “không có khả năng xác định[12]. Tuy nhiên, mọi thông tin về chiếc thuyền đó vẫn được chuyển tới Phó Lãnh sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ W. Everett Scotten tại Sài Gòn.

Ngày 19-4-1932, sau khi nhận được các thông tin nói trên, W. Everett Scotten đã gửi thư cảm ơn Léon Sogny. Toàn văn bức thư như sau:

Lãnh sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,

Sài Gòn, ngày 19 tháng Tư năm 1932.

Thưa Ngài đáng kính,

Tôi đã nhận được lá thư tuyệt vời của Ngài ngày 04 tháng Tư cùng với những tư liệu giá trị kèm theo. Điều đó khiến tôi càng vui mừng hơn khi Ngài không chỉ tìm được báo cáo về chuyến dừng chân của ông Roberts tại Tourane vào năm 1832 mà còn cả báo cáo về chuyến thăm khác của chiến thuyền Hoa Kỳ này, vốn không được nói đến trong câu chuyện mà tôi biết.

Rõ ràng là bức thư do chỉ huy con thuyền này mang đến gần như là mang tính ngoại giao, với nguồn tài liệu của Ngài cũng như là của tôi, tôi sẽ cố gắng xác minh điều đó thông qua Bộ Ngoại giao[13]. Tôi hoàn toàn đồng ý với Ngài rằng chữ Hán “Nghĩa-đức-môn La-bách” chắc chắn chỉ Edmund Roberts, và tên của vị thuyền trưởng là “Đức-giai Tam-da”, đối với tôi hình như là tên của Georges Thomas, nhưng tôi sẽ yêu cầu những thông tin chính xác hơn để có thể hiểu tường tận chi tiết này.

Những lời giải thích của Ngài về thứ bậc của các sứ thần, vị trí địa lý..., sẽ rất hữu ích đối với tôi trong việc viết bài về chuyến viếng thăm của ông Roberts và tôi sẽ gửi cho Ngài một bản sao ngay sau khi tôi viết xong. Rất có thể, như điều Ngài giả định, rằng bản gốc của những bức thư do phái đoàn này mang đến chưa được giao lại[14] và do vậy chúng vẫn tồn tại trong tàng thư của Triều đình. Tuy nhiên, tôi vẫn trông chờ vào kết quả nghiên cứu mà Ngài sẽ thực hiện về chủ đề này. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn về những văn bản bằng chữ Hán mà Ngài đã sao lại từ Lưu trữ Hoàng gia Huế, và chắc chắn sẽ gây hứng thú cho tất cả những ai quan tâm đến lịch sử ngoại giao của đất nước tôi.

Ngài Lãnh sự, người cũng quan tâm đến những phái bộ trong quá khứ, cùng với tôi, gửi lời cảm ơn Ngài vì tất cả những gì mà Ngài đã làm về vấn đề này. Xin gửi tới Ngài những tình cảm tốt đẹp nhất.

Ký tên: Scotten.

Nhân dịp này, Léon Sogny đã giới thiệu với W. Everett Scotten một số tư liệu bằng tiếng Pháp và tiếng Anh về mối quan hệ giữa một số nước phương Tây với Nam Kỳ và Trung Kỳ trong những năm 1819, 1835, 1836, 1837, 1838 được xuất bản tại Londre, Philadelphia, London...

Từ bài viết của Chánh Sở Mật thám Trung Kỳ Léon Sogny, sơ bộ có thể rút ra 3 kết luận:

1. Những tư liệu của triều Nguyễn về 2 chiếc thuyền của Hoa Kỳ muốn đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam trong những năm 1832 và 1836 mà tàng thư của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có được là do Léon Sogny cung cấp.

2. Căn cứ vào nhận định của Léon Sogny và W. Everett Scotten, khả năng cả 2 chiếc thuyền của Hoa Kỳ đến Việt Nam trong năm 1832 và 1836 đều là thuyền buôn. Phải chăng viên sử quan viết “Đại Nam thực lục” (năm Minh Mạng thứ 17 - 1836) đã nhầm lẫn khi viết thành “binh thuyền” ???

3. Một trong những nguyên nhân thất bại của cả 2 cuộc thương thuyết là cho đến những năm đầu thế kỷ XIX, khi tình hình thế giới đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ thì ở trong nước, triều Nguyễn vẫn xây dựng và điều hành đất nước theo lối bảo thủ. Hệ tư tưởng Nho giáo đã chi phối cách nhìn và cách thực hành của vua tôi nhà Nguyễn khi tự xem mình là nhất thiên hạ nên các vua triều Nguyễn luôn coi phương Tây là những đe dọa tiềm tàng đối với an ninh đất nước và làm rối loạn tư tưởng thống trị là Nho giáo. Mặt khác, qua “Đại Nam thực lục” triều Minh Mạng (các năm 1832 và 1836), người ta dễ nhận thấy các quan triều Nguyễn đã gây ra nhiều khó khăn cho phái đoàn Hoa Kỳ, bởi sự câu nệ khắt khe ở các câu chữ, các thủ tục... Do sự từ chối của triều đình nhà Nguyễn, cụ thể là của vua Minh Mạng, mối giao thương Hoa Kỳ - Việt Nam đã không được thiết lập từ hồi đó.

    

Tài liệu tham khảo:

- L. SOGNY (Chef du Service de la Sûreté en Annam), “Une mission américaine en Annam sous Minh Mạng”, Bulletin des Amis du Vieux de Hué, N0 3, 24è année, Janvier  - Mars 1937, tr. 62-67.

- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 412-413. 

- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 916.  

- Đào Nhật Kim - Võ Thị Tem (Trường Đại học Phú Yên), Edmund Roberts với sứ mệnh thiết lập bang giao Việt-Mỹ trong thế kỷ XIX, Journal of Science - Phu Yen University, No.24 (2020), 64-69.

- Trần Thanh Ái, Bang giao Việt-Mỹ: khởi đầu đầy sóng gió (bài đã đăng trong tạp chí Xưa & Nay số tháng 4 năm 2020), https://nghiencuulichsu.com/2020/05/20/bang-giao-viet-my-khoi-dau-day-song-gio/ 

 

 

 

[1] L. SOGNY, “Une mission américaine en Annam sous Minh Mạng”, Bulletin des Amis du Vieux de Hué, N0 3, 24è année, Janvier - Mars 1937, tr. 62-67.

[2] Léon Sogny: sinh ngày 25-7-1880 tại Douai (tỉnh Nord thuộc vùng Hauts-de-France), mất ngày 25-7-1947 tại Huế, được chôn tại nghĩa trang Phủ Cam, sau đó được chuyển về nghĩa trang xã Thụy Phương (cách Huế 14 km về phía tây nam). Léon Sogny được vua Bảo Đại phong tước “An Bình Nam” ngày 07-5-1939.

[3] Edmund Roberts: sinh ngày 29-6-1784 mất ngày 12-6-1836, được cho là một nhà ngoại giao Hoa Kỳ và được Tổng thống Andrew Jackson bổ nhiệm, giữ chức vụ phái viên đầu tiên của Hoa Kỳ tại Viễn Đông, đã đi trên tàu USS Peacock trong các phái đoàn ngoại giao không thường trú đến các tòa án của Nam Kỳ, Xiêm và Muscat và Oman trong những năm 1832-1836.

[4] Theo thông báo ngày 05-01-1832 của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ là Edward Livingston gửi Bộ trưởng Hải quân Woodbury, Tổng thống Andrew Jackson đã đồng ý bổ nhiệm Edmund Roberts làm “nhân viên mật vụ tại vùng Ấn Độ dương”. Trên thực tế, Edmund Roberts được cử làm đặc sứ đến các nước Việt Nam, Thái Lan với nhiệm vụ “thu thập tin tức về các sản phẩm và nền thương mại đồng thời tìm cách ký kết hiệp ước thương mại với giới chức có thẩm quyền của các quốc gia này”. Dẫn theo Đào Nhật Kim - Võ Thị Tem (Trường Đại học Phú Yên), Edmund Roberts với sứ mệnh thiết lập bang giao Việt-Mỹ trong thế kỷ XIX, Journal of Science - Phu Yen University, No. 24 (2020), 64-69.  

[5] Trước thập niên 1550 Macao là thuộc địa của Bồ Đào Nha, từ sau ngày 20-12-1999, Macao trở thành một đặc khu của Trung Quốc. 

[6] Vương quốc Hồi giáo Muscat từng là một cường quốc hàng hải có phạm vi bao gồm Vương quốc Hồi giáo Oman và một phần lãnh thổ của Pakistan ngày nay. 

[7] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Đại Nam thực lục, tập 3, tr. 412-413, Hà Nội: Nxb Giáo dục.

[8] Nhã Di Lý là cách phiên âm Hán Việt của tên nước Mỹ theo cách viết tiếng Pháp (États-Unis), còn Ma Ly Căn là ghi âm Hán Việt từ tên nước Mỹ theo cách viết tiếng Anh (America).

[9] Tên phiên âm Hán-Việt của Edmund Roberts.

[10] Tên phiên âm Hán-Việt của David Geisinger.

[11] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 916, Hà Nội: Nxb Giáo dục

[12] Léon Sogny cho rằng khó xác định đó là “binh thuyền (bateau de guerre) nên ông ta chỉ dùng từ thuyền (bateau) chung cho cả 2 trường hợp. Trong lịch sử, chiếc thuyền đó chính là thuyền Peacock có chuyên chở Edmund Roberts đến xin được trình thư của Tổng thống Andrew Jackson lên vua Minh Mạng và xin được thiết lập quan hệ ngoại giao với nước ta (xem ảnh minh họa).

[13] Ý của W. Everett Scotten là chiếc thuyền thứ hai (thả neo ở vịnh Trà Sơn, hải cảng Tourane tháng 5-1836) không phải là “chiến thuyền”.  

[14] Ý của W. Everett Scotten là 2 lá thư của Tổng thống Hoa Kỳ chưa được giao cho Léon Sogny để nghiên cứu theo yêu cầu của ông ta.   

 

 

TS. Đào Thị Diến